trung tâm gia sư quận 9 thấy nạn đói kinh khủng và dữ dội năm 1945 đã in hằn trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực được xem là người con của đồng ruộng, 1 con người 1 lòng đi về mang thuần phác phong thủy ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình lập lại, nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời. Kim Lân đã có vào thiên truyện của mình khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện trình bày thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và sự khám phá tinh tế diễn biến tâm lí của nhân vật.
Gia sư Biên Hòa Đồng Nai được biết trong một lần phỏng vấn, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói của người ta thường viết về sự khốn cộng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói, ta hay nghĩ tới những người nghĩ ngay đến cái chết. Tôi muốn viết một thiên truyện khác sở hữu ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù kề cận bên cái chết nhưng những con người đấy ko nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra người”. Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm là ở đó. Đó là tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống, về mai sau của các con người đang cận kề có mẫu chết. Bằng phương pháp dẫn truyện, xây dựng cảnh huống “nhặt vợ” tài tình hài hòa có khả năng phân tách ngôn ngữ nông dân, tiếng nói dung dị, đời thường, nhà văn đã tái hiện trước mắt ta không gian thảm hại của các năm đói thê lương. Trong đó ngổn ngang kẻ sống người chết, các bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ con và tiếng gào thét khủng khiếp của đàn quạ. Bằng tấm lòng hiền lành và chân thành, nhà văn gửi gắm trong ko gian tối đen như mực đấy những mầm sống vươn đến tương lai.
gia sư anh văn biên hòa thấy rằng khi “nhặt” được vợ về, Tràng vui lắm. Nụ cười của Tràng vô cùng đẹp như đối chọi hoàn toàn với sườn cảnh thê lương bấy giờ. Tràng phát hiện ra nét duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái “liếc mắt cười tít” cái mắng yêu và loại củng trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn bộc lộ đầy ý vị. Hạnh phúc tới với Tràng tuy muộn mằn, tuy nên “nhặt” mới sở hữu được vợ, nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Tràng đã tìm hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan dòng tăm tối, nghèo khổ, cô độc để “mừng vợ mới vợ miếc”, “để soi sáng hạnh phúc tương lai”. Tình tiết “hai dầu hào” giàu ý nghĩa nhân đạo, biểu lộ tình ái thương và khát vọng hạnh phúc trong cộng cực nghèo đói.
Tình yêu thương còn được biểu hiện trong sự ngợi ca của Kim Lân dành cho nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người má nghèo lúc nhận nàng dâu mới. Niềm tin “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, nồi cháo đắng chát mà người má già gọi là “chè khoán ngon đáo để”, các câu chuyện vui mà người má kể cộng các con trong bữa ăn. Tất cả biểu thị thật cảm động tình thương người, niềm tin đối sở hữu con người của nhà văn Kim Lân.
Gia sư Bình Dương Thủ Dầu Một nhận thấy Kim Lân thật tuyệt vời lúc dựng nên tình huống “nhặt vợ” của anh Tràng. Tình huống đó là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ tàn nhẫn sở hữu nhau. Khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao đèo bồng thêm người khác. Trong cảnh huống đó người ta dễ cấu xé nhau, ích kỉ hơn là vị tha. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra điều ngược lại ở những nhân vật như Tràng, thị và bà cụ Tứ. Ta kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường, không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, “người lớn xanh xám như những bóng ma” nhưng lạ thay điều đấy không thể lấn lướt được sự rét mướt trong lòng người bởi nghĩa cử cao đẹp của Tràng và bà cụ Tứ dành cho người đàn bà xa lạ.
xem thêm: gia su thanh duoc quan 9
Gia sư Biên Hòa Đồng Nai được biết trong một lần phỏng vấn, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói của người ta thường viết về sự khốn cộng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói, ta hay nghĩ tới những người nghĩ ngay đến cái chết. Tôi muốn viết một thiên truyện khác sở hữu ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù kề cận bên cái chết nhưng những con người đấy ko nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra người”. Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm là ở đó. Đó là tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống, về mai sau của các con người đang cận kề có mẫu chết. Bằng phương pháp dẫn truyện, xây dựng cảnh huống “nhặt vợ” tài tình hài hòa có khả năng phân tách ngôn ngữ nông dân, tiếng nói dung dị, đời thường, nhà văn đã tái hiện trước mắt ta không gian thảm hại của các năm đói thê lương. Trong đó ngổn ngang kẻ sống người chết, các bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ con và tiếng gào thét khủng khiếp của đàn quạ. Bằng tấm lòng hiền lành và chân thành, nhà văn gửi gắm trong ko gian tối đen như mực đấy những mầm sống vươn đến tương lai.
gia sư anh văn biên hòa thấy rằng khi “nhặt” được vợ về, Tràng vui lắm. Nụ cười của Tràng vô cùng đẹp như đối chọi hoàn toàn với sườn cảnh thê lương bấy giờ. Tràng phát hiện ra nét duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái “liếc mắt cười tít” cái mắng yêu và loại củng trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn bộc lộ đầy ý vị. Hạnh phúc tới với Tràng tuy muộn mằn, tuy nên “nhặt” mới sở hữu được vợ, nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Tràng đã tìm hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan dòng tăm tối, nghèo khổ, cô độc để “mừng vợ mới vợ miếc”, “để soi sáng hạnh phúc tương lai”. Tình tiết “hai dầu hào” giàu ý nghĩa nhân đạo, biểu lộ tình ái thương và khát vọng hạnh phúc trong cộng cực nghèo đói.
Tình yêu thương còn được biểu hiện trong sự ngợi ca của Kim Lân dành cho nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người má nghèo lúc nhận nàng dâu mới. Niềm tin “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, nồi cháo đắng chát mà người má già gọi là “chè khoán ngon đáo để”, các câu chuyện vui mà người má kể cộng các con trong bữa ăn. Tất cả biểu thị thật cảm động tình thương người, niềm tin đối sở hữu con người của nhà văn Kim Lân.
Gia sư Bình Dương Thủ Dầu Một nhận thấy Kim Lân thật tuyệt vời lúc dựng nên tình huống “nhặt vợ” của anh Tràng. Tình huống đó là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ tàn nhẫn sở hữu nhau. Khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao đèo bồng thêm người khác. Trong cảnh huống đó người ta dễ cấu xé nhau, ích kỉ hơn là vị tha. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra điều ngược lại ở những nhân vật như Tràng, thị và bà cụ Tứ. Ta kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường, không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, “người lớn xanh xám như những bóng ma” nhưng lạ thay điều đấy không thể lấn lướt được sự rét mướt trong lòng người bởi nghĩa cử cao đẹp của Tràng và bà cụ Tứ dành cho người đàn bà xa lạ.
xem thêm: gia su thanh duoc quan 9