nhà thơ hồ xuân hương
“Thơ thánh, thơ tiên đời vẫn có. Tung hoành thơ quỷ hãn hữu hoi thay.” Vì sao Nguyễn Khuyến lại dành các lời đó để nhận xét về thơ Hồ Xuân Hương ?
trung tâm gia sư quận thủ đức cho rằng xưa nay, người phụ nữ trong xã hội phong kiến thường theo khuôn dòng cam đoan trang, hiền thục. Vậy các lời viết ra ko thể gân guốc, cay độc như thơ quỷ được. Ấy thế mà đi trái lại quan niệm chung của thời đại, Hồ Xuân Hương đã tự tín chứa lên tiếng nói của trái tim mình, có gai góc, sở hữu tai ngược thì đấy cũng chính là con người Xuân Hương.
các trung tâm gia sư tại biên hòa nhận thấy Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài hoa, uyên bác. Bà là phận nhi nữ nhưng lại thích đi du ngoạn và kết bạn có cực kỳ phổ biến thi sĩ nức danh đương thời như Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ. Có lẽ bởi thế mà thơ bà rất phóng khoáng, tự do, không mang gì trói buộc. Thơ tả cảnh tự nhiên ko cần là những hình ảnh ước lệ như cây ngô đồng, hoa tuyết, trăng sáng… mà là các hình ảnh mộc mạc, giản đơn nhưng đầy sức sống.
“Trời đất sinh ra đá 1 chòm
Nứt ra đôi mảnh hõm áo quan hom”
(Hang Cắc Cớ)
dạy kèm tại nhà biên hòa nhận thấy cũng từ một đôi mắt nhìn đời siêu khác như vậy mà bà nhìn về con người cũng theo những bình diện cực kỳ lạ. Bà nhìn người phụ nữ, không thấy ở đấy là công dung ngôn hạnh, mà là vẻ đẹp hình thể cân đối, trẻ trung – “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước). Bà nhìn người đàn bà cực kỳ bao dung, thấu cảm những nỗi thống khổ của họ, vì bà cũng là một người trong số họ. Có thể nói, bà không chịu bất cứ một sự ràng buộc về đạo đức hay luật lệ gì để sáng tác. Bà sáng tác bằng tấm lòng, bằng chính trái tim đang rỉ máu và rung động dành cho người phụ nữ. Nhìn bằng trái tim, ta mới thấy tận cộng các vẻ đẹp mà ngày thường bị lệ luật che tắt hơi – “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” (Không chồng mà chửa)
trung tâm gia sư tx. dĩ an bình dương thấy mạnh mẽ là thế, nhưng Hồ Xuân Hương cũng không giảm thiểu được những khi yếu lòng khi nghĩ về phận phụ nữ lắm truân chuyên. Điều đó được trình bày rõ nhất qua chùm ba bài thơ Tự tình. Nhan đề chùm bài thơ cũng đã gợi cho người đọc phổ biến suy nghĩ. Vị nữ sĩ tài sắc kia, ko thiếu người tâm tình, không vắng người đàm đạo, cớ sao lại bắt buộc đặt tựa là Tự tình – tự mình giãi bày. Phải chăng trong bài thơ không chỉ là 1 nỗi buồn đơn thuần, mà còn là sự chất cất phiền muộn đong đầy, chỉ trực chờ trào ra?
Trung tâm cô giáo quận 7 thấy rằng lúc đọc tuần tự cả ba bài thơ, ta dần hiểu ra hàn ôn của bà. Bài thơ đầu tiên, dù trong cảnh cô độc, nhân vật trữ tình vẫn biểu thị thái độ khảng khái, quyết liệt – “Tài tử tao nhân ai ấy tá?/ Thân này đâu đã chịu già tom.” Câu thơ diễn tả khí phách, giá trị riêng của người phụ nữ, không phụ thuộc vào cánh nam nhi để kiếm tìm hạnh phúc. Thế nhưng, ngay bài thơ Tự tình II, nỗi buồn dường như đã nhấn chìm sự mạnh mẽ ấy. Phận nhi nữ mạnh mẽ đến đâu, ngoan cường tới đâu, khi đêm xuống vẫn bắt buộc lắm một người bầu bạn. Đó không cần là nguyện vọng xa vời, mà đấy là quyền hưởng hạnh phúc căn bản của con người mà thôi. Ấy thế mà xã hội phong kiến đã tước đoạt đi quyền cơ bản ấy, đẩy con người vào cảnh cô độc ngay chính trong hôn nhân – “Mảnh tình san sẻ tí con con” (Tự tình II). Đến bài thơ Tự tình III, tình ái đã nguội lạnh, người nữ giới đành rằng buông xuôi, phó mặc đa số cho trần thế – “Ngán nỗi ủ ấp đàn những tấp tênh”.
dia chi trung tam gia su toan tam cho rằng chỉ là ước muốn hạnh phúc thôi, mang cần là sai lầm không trong xã hội phong kiến? Không. Ước vọng đó là đáng quý, chỉ sở hữu các lệ luật khắc nghiệt đã bóp nghẹt con người. Hồ Xuân Hương đớn đau nhận ra, nhưng bà cũng không thể chống lại quy luật hà khắc ấy. Tất cả các nỗi niềm chỉ còn biết gửi gắm trong thơ ca. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta ko chỉ thấy khí phách ngang tàng của một tâm hồn ko muốn bị trói buộc của xã hội mà còn xót xa vì thân phận mong manh, rộng rãi bất hạnh của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã cất lên tiếng lòng, không chỉ của bản thân bà mà còn là của cả người phụ nữ trong suốt mấy trăm năm sống trong thời đại phong kiến.
trung tâm gia sư quận thủ đức cho rằng xưa nay, người phụ nữ trong xã hội phong kiến thường theo khuôn dòng cam đoan trang, hiền thục. Vậy các lời viết ra ko thể gân guốc, cay độc như thơ quỷ được. Ấy thế mà đi trái lại quan niệm chung của thời đại, Hồ Xuân Hương đã tự tín chứa lên tiếng nói của trái tim mình, có gai góc, sở hữu tai ngược thì đấy cũng chính là con người Xuân Hương.
các trung tâm gia sư tại biên hòa nhận thấy Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài hoa, uyên bác. Bà là phận nhi nữ nhưng lại thích đi du ngoạn và kết bạn có cực kỳ phổ biến thi sĩ nức danh đương thời như Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ. Có lẽ bởi thế mà thơ bà rất phóng khoáng, tự do, không mang gì trói buộc. Thơ tả cảnh tự nhiên ko cần là những hình ảnh ước lệ như cây ngô đồng, hoa tuyết, trăng sáng… mà là các hình ảnh mộc mạc, giản đơn nhưng đầy sức sống.
“Trời đất sinh ra đá 1 chòm
Nứt ra đôi mảnh hõm áo quan hom”
(Hang Cắc Cớ)
dạy kèm tại nhà biên hòa nhận thấy cũng từ một đôi mắt nhìn đời siêu khác như vậy mà bà nhìn về con người cũng theo những bình diện cực kỳ lạ. Bà nhìn người phụ nữ, không thấy ở đấy là công dung ngôn hạnh, mà là vẻ đẹp hình thể cân đối, trẻ trung – “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước). Bà nhìn người đàn bà cực kỳ bao dung, thấu cảm những nỗi thống khổ của họ, vì bà cũng là một người trong số họ. Có thể nói, bà không chịu bất cứ một sự ràng buộc về đạo đức hay luật lệ gì để sáng tác. Bà sáng tác bằng tấm lòng, bằng chính trái tim đang rỉ máu và rung động dành cho người phụ nữ. Nhìn bằng trái tim, ta mới thấy tận cộng các vẻ đẹp mà ngày thường bị lệ luật che tắt hơi – “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” (Không chồng mà chửa)
trung tâm gia sư tx. dĩ an bình dương thấy mạnh mẽ là thế, nhưng Hồ Xuân Hương cũng không giảm thiểu được những khi yếu lòng khi nghĩ về phận phụ nữ lắm truân chuyên. Điều đó được trình bày rõ nhất qua chùm ba bài thơ Tự tình. Nhan đề chùm bài thơ cũng đã gợi cho người đọc phổ biến suy nghĩ. Vị nữ sĩ tài sắc kia, ko thiếu người tâm tình, không vắng người đàm đạo, cớ sao lại bắt buộc đặt tựa là Tự tình – tự mình giãi bày. Phải chăng trong bài thơ không chỉ là 1 nỗi buồn đơn thuần, mà còn là sự chất cất phiền muộn đong đầy, chỉ trực chờ trào ra?
Trung tâm cô giáo quận 7 thấy rằng lúc đọc tuần tự cả ba bài thơ, ta dần hiểu ra hàn ôn của bà. Bài thơ đầu tiên, dù trong cảnh cô độc, nhân vật trữ tình vẫn biểu thị thái độ khảng khái, quyết liệt – “Tài tử tao nhân ai ấy tá?/ Thân này đâu đã chịu già tom.” Câu thơ diễn tả khí phách, giá trị riêng của người phụ nữ, không phụ thuộc vào cánh nam nhi để kiếm tìm hạnh phúc. Thế nhưng, ngay bài thơ Tự tình II, nỗi buồn dường như đã nhấn chìm sự mạnh mẽ ấy. Phận nhi nữ mạnh mẽ đến đâu, ngoan cường tới đâu, khi đêm xuống vẫn bắt buộc lắm một người bầu bạn. Đó không cần là nguyện vọng xa vời, mà đấy là quyền hưởng hạnh phúc căn bản của con người mà thôi. Ấy thế mà xã hội phong kiến đã tước đoạt đi quyền cơ bản ấy, đẩy con người vào cảnh cô độc ngay chính trong hôn nhân – “Mảnh tình san sẻ tí con con” (Tự tình II). Đến bài thơ Tự tình III, tình ái đã nguội lạnh, người nữ giới đành rằng buông xuôi, phó mặc đa số cho trần thế – “Ngán nỗi ủ ấp đàn những tấp tênh”.
dia chi trung tam gia su toan tam cho rằng chỉ là ước muốn hạnh phúc thôi, mang cần là sai lầm không trong xã hội phong kiến? Không. Ước vọng đó là đáng quý, chỉ sở hữu các lệ luật khắc nghiệt đã bóp nghẹt con người. Hồ Xuân Hương đớn đau nhận ra, nhưng bà cũng không thể chống lại quy luật hà khắc ấy. Tất cả các nỗi niềm chỉ còn biết gửi gắm trong thơ ca. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta ko chỉ thấy khí phách ngang tàng của một tâm hồn ko muốn bị trói buộc của xã hội mà còn xót xa vì thân phận mong manh, rộng rãi bất hạnh của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã cất lên tiếng lòng, không chỉ của bản thân bà mà còn là của cả người phụ nữ trong suốt mấy trăm năm sống trong thời đại phong kiến.