bài thơ con quạ
gia sư tại nhà tphcm thấy rằng Matsuo Bashô được biết tới là thi sĩ hàng đầu về thơ hai - cư của Nhật Bản. Ông sinh ra ở U - ê - nô, xứ I - ga trong một gia đình thuộc loại dõi võ sĩ đạo Samurai. Những bài thơ do ông sáng tác tiêu biểu cho thể mẫu thơ hai - cư truyền thống Nhật Bản. So mang các thể cái thơ khác trên thế giới, thơ hai - cư có số từ vào cái ít nhất, chỉ với 17 âm tiết, được ngắt ra khiến cho 3 đoạn theo đồ vật tự thường là 5 - 7 - 5 âm tiết. Cảm thức thẩm mỹ trong thơ hai - cư cực kỳ đặc trưng có sự tinh tế, đề cao mẫu vắng lặng, đơn sơ, huyền diệu, mềm mại, dịu dàng,... Mỗi bài thơ hai - cư đều với trong mình 1 tứ thơ nhất định. Đó có thể là một bức họa lại phong cảnh với vài sự vật cụ thể, trong một giây phút để từ đó khơi gợi lên xúc cảm, suy tư của tác giả. Thi nhân đã từng mượn thanh âm của tự dưng mà thanh minh tấm lòng thương nhớ quê hương của mình.
Tiếng chim đỗ quyên hót như vang vọng một miền ký ức xưa, khiến rung động, thổn thức trái tim người nghệ sĩ:
“Chim tử quy hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô”
Gia sư Chuyên Nghiệp Tại Biên Hòa thấy không những vậy, các nét họa trong thơ Bashô còn diễn đạt được những hiện tượng của trùng hợp với toàn bộ âm thanh, màu sắc, ánh sáng,... cùng sự tương giao, chuyển hóa lẫn nhau của vạn vật, tựa như một quy luật lớn lao và bí mật vẫn thường thấy ở thiên nhiên. “Bài thơ con quạ” là 1 trong các bài thơ điển hình về thiên nhiên của Bashô:
Kare eda ni
karasu no tomari keri
aki no kure
(Phiên âm La – tinh)
Dịch:
Trên cành khô
chim quạ đậu
chiều thu
Vỏn vẹn ba chiếc thơ, song Bashô đã mở ra trước mắt người đọc cả một chiều kích không gian rộng to với sự quạnh vắng hiu, tĩnh lặng, trầm lắng tới nao lòng. Chỉ một con quạ mà lại có khả năng thức động cảm xúc thiên nhiên, đắm mình trong chất “sa - bi” vốn đơn sơ, tao nhã tới u buồn.
gia sư tiếng anh tại biên hòa cho rằng bức tranh thiên nhiên ko với dáng dấp thường tình của ngồn ngộn cảnh vật. Ngược lại, đó là họa nét thủy mặc của khuông cảnh mùa thu lắng đọng. Chỉ ba sinh thể ở bên nhau, quyện hòa nhau, tựa nương nhau: “cành khô” – “chim quạ” – “chiều thu”. Tất cả đã mở ra một chiều kích rộng to có hầu hết sự gom nhặt của không gian, thời gian, tạo vật. Bashô đã vô cùng tinh tế khi khám phá ra hình ảnh mới mẻ: “chim quạ” đậu trên “cành khô”. Nó ko đơn thuần là sự rủ bóng của một cánh chim xuống cảnh vật tiêu điều giữa tiết trời đượm màu u uất, mà đó – còn là sự đối nghịch tương phản giữa sắc đẹp tối đen muội của con vật bé nhỏ, lẻ loi sở hữu ko gian bát ngát vô định.
trung tâm gia sư bách khoa bình dương thấy hình ảnh tự nhiên trong nỗi tịch liêu làm cho nghệ sĩ lúc họa chân dung cũng nên quẳng hết bộn bề, lo toan của cuộc đời, mà tắm mình trong mẫu chảy của nỗi buồn cô đơn, nhẹ nhàng, mơn man nhưng lại cực kỳ thấm thía. Con người Bashô – kẻ mộng lãng du khắp chân trời góc bể đã họa nên bức vẽ đơn sơ chỉ qua ngôn từ hàm súc, cô đọng. Thi sĩ đã lấy loại “vô ngôn” của thanh tiếng mà gợi lên loại “hữu ngôn” của tâm hồn – 1 tâm hồn thiền vị, cô tịch nhưng giàu tình yêu đời, yêu thiên nhiên, cuộc sống. Thực đúng như lời của Daresiki: “Khi tình cảm đạt tới độ cao trào thì phương pháp mô tả phải chăng nhất là im im”. Lặng im mà nghe tiếng quạ xao động đất trời, ném người đọc vào cõi tâm an của sự thanh tịnh trong sâu thẳm trái tim, níu giữ tâm hồn họ bởi chất mộc mạc, thanh nhã của tạo vật.
tt gia su toan tam xét về ngôn từ, những chiếc thơ hai - cư của Bashô không dùng phổ biến tính từ và trạng từ để cụ thể hóa sự vật. Thay vào ấy là các đường nét chấm phá, chỉ gợi chứ ko tả, để lại vô cùng phổ biến dung tích cho trí tưởng tượng của người đọc được thỏa sức sáng tạo. Thơ hai - cư của Bashô vì thế, đi mãi vào trong trái tim người đọc có muôn nghìn cảm xúc, đóng góp to vào kho tàng văn hóa của nhân loại.
Tiếng chim đỗ quyên hót như vang vọng một miền ký ức xưa, khiến rung động, thổn thức trái tim người nghệ sĩ:
“Chim tử quy hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô”
Gia sư Chuyên Nghiệp Tại Biên Hòa thấy không những vậy, các nét họa trong thơ Bashô còn diễn đạt được những hiện tượng của trùng hợp với toàn bộ âm thanh, màu sắc, ánh sáng,... cùng sự tương giao, chuyển hóa lẫn nhau của vạn vật, tựa như một quy luật lớn lao và bí mật vẫn thường thấy ở thiên nhiên. “Bài thơ con quạ” là 1 trong các bài thơ điển hình về thiên nhiên của Bashô:
Kare eda ni
karasu no tomari keri
aki no kure
(Phiên âm La – tinh)
Dịch:
Trên cành khô
chim quạ đậu
chiều thu
Vỏn vẹn ba chiếc thơ, song Bashô đã mở ra trước mắt người đọc cả một chiều kích không gian rộng to với sự quạnh vắng hiu, tĩnh lặng, trầm lắng tới nao lòng. Chỉ một con quạ mà lại có khả năng thức động cảm xúc thiên nhiên, đắm mình trong chất “sa - bi” vốn đơn sơ, tao nhã tới u buồn.
gia sư tiếng anh tại biên hòa cho rằng bức tranh thiên nhiên ko với dáng dấp thường tình của ngồn ngộn cảnh vật. Ngược lại, đó là họa nét thủy mặc của khuông cảnh mùa thu lắng đọng. Chỉ ba sinh thể ở bên nhau, quyện hòa nhau, tựa nương nhau: “cành khô” – “chim quạ” – “chiều thu”. Tất cả đã mở ra một chiều kích rộng to có hầu hết sự gom nhặt của không gian, thời gian, tạo vật. Bashô đã vô cùng tinh tế khi khám phá ra hình ảnh mới mẻ: “chim quạ” đậu trên “cành khô”. Nó ko đơn thuần là sự rủ bóng của một cánh chim xuống cảnh vật tiêu điều giữa tiết trời đượm màu u uất, mà đó – còn là sự đối nghịch tương phản giữa sắc đẹp tối đen muội của con vật bé nhỏ, lẻ loi sở hữu ko gian bát ngát vô định.
trung tâm gia sư bách khoa bình dương thấy hình ảnh tự nhiên trong nỗi tịch liêu làm cho nghệ sĩ lúc họa chân dung cũng nên quẳng hết bộn bề, lo toan của cuộc đời, mà tắm mình trong mẫu chảy của nỗi buồn cô đơn, nhẹ nhàng, mơn man nhưng lại cực kỳ thấm thía. Con người Bashô – kẻ mộng lãng du khắp chân trời góc bể đã họa nên bức vẽ đơn sơ chỉ qua ngôn từ hàm súc, cô đọng. Thi sĩ đã lấy loại “vô ngôn” của thanh tiếng mà gợi lên loại “hữu ngôn” của tâm hồn – 1 tâm hồn thiền vị, cô tịch nhưng giàu tình yêu đời, yêu thiên nhiên, cuộc sống. Thực đúng như lời của Daresiki: “Khi tình cảm đạt tới độ cao trào thì phương pháp mô tả phải chăng nhất là im im”. Lặng im mà nghe tiếng quạ xao động đất trời, ném người đọc vào cõi tâm an của sự thanh tịnh trong sâu thẳm trái tim, níu giữ tâm hồn họ bởi chất mộc mạc, thanh nhã của tạo vật.
tt gia su toan tam xét về ngôn từ, những chiếc thơ hai - cư của Bashô không dùng phổ biến tính từ và trạng từ để cụ thể hóa sự vật. Thay vào ấy là các đường nét chấm phá, chỉ gợi chứ ko tả, để lại vô cùng phổ biến dung tích cho trí tưởng tượng của người đọc được thỏa sức sáng tạo. Thơ hai - cư của Bashô vì thế, đi mãi vào trong trái tim người đọc có muôn nghìn cảm xúc, đóng góp to vào kho tàng văn hóa của nhân loại.